June 23, 2013

Tử Vi - Giáp Tý (P4)

VIII. Nhà của tuổi Giáp Tý

1. Lộc-tồn là sao chủ bất động sản của Giáp Tý đóng ở Dần, ngộ Thiên-mã. Tử-vi kinh gọi cách Lộc-Mã đồng cung là xe chở vàng tức cách tốt cho nhà cửa. Nhưng tuổi Giáp Tý, Lộc-tồn còn ngộ thêm Tang-môn là sao chủ hư-tán, thì Giáp-Tý có nhiều bất động sản. Có bất động sản sớm là khác. Nhưng không nên mua nhà mới, hoặc làm nhà. Chỉ nên mua nhà cũ thì hay hơn. Giáp Tý thích nhà kiểu cổ, không thích nhà mới. Khi Lộc-Mã ngộ Hỏa thì hay đổi nhà, dọn nhà.

2. Tuổi Tý, Ngọ thường bị cái vạ Khốc, Hư đồng cung đóng ở Ngọ, Tý, khiến thời thơ ấu, thời trẻ họ gặp gian nan, nghèo khó. Từ 30 tuổi trở đi mới khá. Tuổi Giáp Tý không bị cái vạ đó, bởi Khốc, Hư ở Ngọ, được Lộc-tồn, Thiên-mã ở Dần chiếu lên, giải cái vạ nghèo khó trong 30 năm đầu cuộc đời. Tuy nhiên phần đông tuổi
Giáp Tý có tài sản trước 52 tuổi, e khi nhập hạn 52-53 tuổi thường bị trắng tay, phải lập lại cuộc đời, bấy giờ mới yên.

3. Giáp Tý mạng kim, thuộc phương Tây. Chi Tý thuộc phương Bắc. Can Giáp thuộc phương Đông. Vậy Giáp Tý phải ở nhà hướng nào thì lợi cho sức khỏe, thuận cho công việc làm ăn.

3.1. Thứ nhất nhà hướng Tây

Hợp với bản mệnh. Bản mệnh sinh ra Chi Tý thuộc phương Bắc. Chi chủ thay đổi. Nếu Giáp Tý làm chính-trị, quân-sự, hoặc làm các nghề như bác-sĩ, nha-sĩ, dược-sĩ, luật-sư, nghĩa là nghề cần đến bản mệnh tốt, nên ở nhà hướng Tây. Mọi sự hanh thông. Muồn dung hòa thì ở nhà hướng Tây-Bắc.

3.2. Thứ nhì nhà hướng Bắc

Được bản mệnh là kim sinh ra, hợp với Chi là Tý. Chi chủ thay đổi, vậy nếu gia chủ làm nghề thương mại, viết-văn, viết-báo, kỹ-sư v.v... nghĩa là những nghề không cần bản mệnh hiền lành nên ở nhà phương Bắc. Lợi cho tiền bạc, sức khỏe, con cái yên vui. Muốn thực phát tài thì ở nhà hướng Đông-Bắc, tiền vào như nước, nhưng phải tranh dành mà miệng tiếng cũng nhiều.

3.3. Thứ ba nhà hướng Đông

Thuộc mộc, bổn mệnh thuộc kim, khắc nhà ở, thì sức khỏe gia chủ tốt, bất lợi cho vợ con.

3.4. Thứ tư nhà hướng Nam.

Thuộc hỏa, khắc bản mệnh thuộc kim, làm ăn lụn bại, gia chủ bệnh tật liên miên.


IX. Bệnh tật tuổi Giáp-Tý

1. Tuổi Giáp Tý thuộc mạng kim, kim trong học thuyết Âm-dương, Ngũ-hành liên hợp với:

- Ngũ khí. Thuộc táo (Khô).

- Ngũ hóa. Thuộc thu (Co vào).

- Ngũ tạng. Thuộc phế, đại-trường. Liên hợp với thủ Thái-âm phế-kinh, thủ Dương-minh đại trường kinh.

- Ngũ quan. Thuộc tị (Mũi).

- Hình thể. Thuộc bì mao (Lông da).

2. Bản mệnh là con người thuộc kim, thuộc phế, đại-trường. Phế, đại-trường là hai tạng phủ tương thông biểu-lý. Phế thuộc tạng thuộc âm, thuộc lý, Đại-trường thuộc phủ, thuộc Dương thuộc biểu. Khi bệnh cập phế thì ảnh hưởng sang đại trường và ngược lại.

- Phế chủ khí, chủ hô hấp. Khi công năng của phế không điều hòa, thì hô hấp vô-lực, âm thanh nhỏ, toàn thân mê mệt. Nếu công năng gián đoạn, hô hấp đoạn tuyệt, thiên mệnh chấm dứt tức... chết.

- Phế chủ tuyên giáng, ngoại hợp với bì mao. Khi phế có bệnh thì ảnh hưởng tới bì mao. Ngược lại bì, mao có bệnh, thì ảnh hưởng tới phế.

- Phế chủ thông với thủy đạo, bởi vậy khi phế bị bệnh, cơ thể con người sinh ra phù thủng.

- Mũi là quan của phế, khi phế có bệnh ảnh hưởng tới mũi, ngược lại mũi có bệnh thì biết phế cũng có bệnh. (7)

3. Bệnh của phế có thể phân làm hai

3.1. Một là ngoại tà xâm nhập sinh ra các bệnh:

Nghẹt-mũi, đau cổ hầu, nghẹt thở, ho suyễn. Tương đương với Tây-y (Rhinites, Rhino-pharyngites, Corryza, Bronchites, Broncho- Asthmatiques), và một phần của các bệnh cảm, cúm (État grippal). Tất cả chia làm ba loại:

- Hàn tà phạm phế. Ho, suyễn, đàm trắng, miệng không khát, mũi nghẹt chảy nước trong, hoặc ác-hàn phát nhiệt, đầu, thân đau. Theo Tây-y là nhiễm trùng đường hô hấp. (Loại siêu vi trùng). (8)

- Nhiệt tà phạm phế, ho suyễn, đờm vàng, hầu đau, miệng khát, phát nhiệt, ác phong hàn, hoặc lồng ngực đau, thổ huyết. Đại tiện kết bón, tiểu tiện vàng đỏ. Theo Tây-y là nhiễm trùng đường hô hấp. (Loại vi trùng).

- Táo tà phạm phế, ho khan không đàm, đàm khò khè, khạc không ra, mũi khô, hầu khô, ho nặng thì đau ngực. Tây-y qui vào nhiễm trùng đường hô hấp. (9)

3.2. Hai là công-năng của phế suy yếu:

- Phế khí hư. Người mệt, suy nhược, ho suyễn vô lực, hoạt động càng thêm nặng, âm thanh vô lực, mồ hôi xuất, sợ lạnh, sắc mặt trắng nhợt. Tây-y qui vào phế viêm kinh niên. (10)

- Phế âm hư. Ho khô, hơi thở ngắn, đàm ít, hoặc đàm có huyết, miệng, hầu khô, âm thanh yếu, hình thể gầy gò, mồ hôi trộm, sau 12 giờ trưa sốt. Tây-y qui vào chứng ho lao. (11)

4. Bản chất cơ thể là kim, khi sinh bệnh thì diễn ra những chứng trên hoặc bệnh ngoài da.

Nếu bản chất cơ thể mạnh, thì phế không bệnh. Phế thuộc kim, kim khắc mộc. Can Giáp thuộc mộc bị bản mệnh khắc. Trong học thuyết Âm-Dương, Ngũ-hành, nếu tương-khắc thái quá gọi là tương-thừa. Tương-thừa là thừa cơ suy nhược mà xâm lấn. Phế mạnh thừa Can. Can chủ huyết, chủ âm. Khi phế khắc can huyết thì sinh ra huyết hư, chứng trạng như sau:

- Sắc mặt trắng nhợt, hoặc vàng úa.

- Mắt hoa đầu váng.

- Trong lòng hồi hộp lo sợ, mất ngủ.

- Chân tay tê dại.

- Phụ nữ kinh kỳ lượng ít, hoặc mất kinh.

Tây-y là chứng mệt mỏi (Asthénie), mất ngủ (Insomnie) hay thần kinh suy nhược (Neurathénie) (12)

5. Nếu tương-thừa mạnh quá, can âm đưa đến "Can dương thượng thăng", chứng trạng như sau:

- Huyết áp cao (Hypertention artérielle).

- Chóng mặt.

- Tai kêu.

- Nhức đầu.

-Dễ nổi giận.

- Mất ngủ.

- Mộng nhiều.

- Trí nhớ giảm thoái.

- Đau ngang lưng.

- Nặng quá sinh não xuất huyết (Hémorragies cérébralles) rồi sinh bán thân bất toại (Hémiplégies). (13)

6. Can là tác dụng của ngoại vật vào cơ thể, trong bệnh-lý là ngoại tà. Can Giáp thuộc gan. Thông thường phế khắc gan. Nhưng khi phế hư nhược, thì gan thừa cơ hư nhược mà uy hiếp. Học thuyết ngũ hành gọi là tương-vũ, tức cậy mạnh hiếp yếu. Khi gan-dương mạnh, uy hiếp phế, khiến phế âm hư, sinh ho, suyễn.

7. Nếu bản chất con người là phế hư nhược, không sinh ra được thận-thủy, đưa đến thận hư. Kinh-nghiệm cho thấy tuổi Giáp-Tý thường làm việc quá độ khiến phế hư sinh thận hư chứng trạng là:

- Mất trí nhớ.

- Đầu sớm bạc.

- Tuổi Giáp Tý thường vì phòng-sự quá độ sinh ra mất trí nhớ.

- Họ cần phải bồi bổ trí nhớ luôn luôn. Tuy họ không coi tình yêu là trọng, nhưng họ ham chuyện phòng the.

Leo núi Vu-sơn là lạc thú tuyệt đỉnh của Giáp Tý. Họ cần bổ thận đều đặn. Đừng đợi đến khi yếu rồi mới bổ thì đã trễ.

8. Những người tuổi Giáp Tý làm chính-trị, bị huyết áp cao. Khi bệnh khởi đầu, phải điều trị ngay. Để lâu sinh não xuất huyết, rồi đưa đến bán thân bất toại, mất hết linh-mẫn trời cho, lạc thú phòng the cũng mất theo.

9. Tuổi Giáp Tý Thiên-mã ngộ Tang-môn. Lộc-tồn, thì bệnh hay tai nạn thường dẫn đến chân tay đau đớn. Họ có thể bị phong thấp, khiến đi đứng khó khăn. Những người tuổi Giáp Tý có địa vị cao, họ phải thù tiếp nhiều, nhưng không bị bệnh bao-tử, mà bị hạc tất phong (Hyper-acides uriques).

9.1. Nếu cung tật ách của họ tại Tỵ, họ còn bị Đới đường (Diabètes). Phần đông tuổi Giáp Tý là người có xương, có thịt, dù họ thích ăn cá hơn ăn thịt.

9.2. Tóm lại tuổi Giáp Tý bản mệnh là phế. Bệnh tật sinh ra khởi nguồn từ phế. Khi lớn tuổi họ bị chứng huyết-áp cao, đái-đường, hoặc bị chứng hạc-tất-phong. Họ thích chuyện phòng the, thì phải chú ý bồi bổ thận luôn luôn, đừng để tới khi... hết rồi mới lo bồi bổ thì đã trễ. Một số lớn tuổi này hay bị mập, dù họ thích ăn cá.

X. VẬN HẠN TUỔI GIÁP TÝ

1. Vận hạn theo tháng

1.1. Tháng 1, 2 thuộc mộc. Mệnh Giáp Tý thuộc kim, khắc mộc, thời gian lý-tưởng để tranh đấu. Thương-gia Giáp Tý nên khởi sự vào thời gian này. Tháng 1 gặp Lộc-tồn, Thiên-mã là tháng tốt nhất về tiền tài cũng như về danh-vọng, coi chừng đau yếu vì có Tang-môn. Tháng hai thêm Hồng-loan, nam ngộ Kình, nữ ngộ Đà nếu tranh dành thì thắng lợi. Có người khác phái giúp đỡ.

1.2. Tháng 3, 5, 9, 12 thuộc thổ. Thổ sinh kim là bản mệnh. Thời gian thuận lợi như nước thủy triều cuồn cuộn đổ. Tháng 3 có Long-trì, được quí-nhân giúp đỡ. Nam mệnh được 3 con rồng: Thanh-long, Long-trì và cung Thìn. Mọi sự toại ý, không gì mà không thành.

1.3. Tháng 4, 5 thuộc hỏa, hỏa khắc kim là bổn mệnh. Phải cẩn thận, nhất là tháng 4 dễ gặp tai nạn, vì ngộ Hao, cẩn thận xe cộ.

1.4. Tháng 7, 8 thuộc kim, hợp với bổn mệnh, tốt đẹp. Ngặt ngộ Triệt thành ra chỉ bình hòa. Đào-Hỉ ngộ Triệt, có sự buồn lòng về tình duyên.

1.5. Tháng 10, 11 thuộc thủy. Bản mệnh thuộc kim sinh thủy, thời cơ tốt, những quyết định sẽ hợp thời, thành-công.

Ở đây chỉ đưa ra những nét đại cương, cần xét đến tiểu-hạn, đại-hạn mới quyết định được.

2. Vận hạn theo đại, tiểu hạn.

2.1. Đại hạn đến cung Mão, hoặc tiểu hạn nam năm Tý, nữ mạng năm Mùi qua cung Mão thuộc mộc. Bổn mạng thuộc kim khắc mộc, thì công việc làm ăn có tính chất tranh dành, sẽ đạt thắng lợi. Nội cung còn có Kình-dương (Nam) Đà-la (Nữ) nếu tranh thương dưới hình thức nào cũng thắng. Hồng-loan ngộ Kình, Đà sẽ được người khác phái trợ giúp. Cẩn thận tránh bị cảm cúm, nhức đầu, sổ mũi. Người sinh tháng 1, 7, hay giờ Thìn, Thân gia đạo bất an, duyên tình tan vỡ.

2.2. Đại hạn đến cung Tỵ. Hoặc nam mạng tiểu hạn năm Mùi. Nữ mạng tiểu hạn năm Tỵ đều qua cung Tỵ. Cung Tỵ thuộc hỏa, bản mệnh thuộc kim bị khắc. Nội cung ngộ Kiếp-sát, Phá-toái, Đại (Tiểu) Hao, phải cẩn thận. Chớ nên mưu đồ việc lớn, nhất là đừng bỏ vốn làm ăn chung, dễ bị tán tài, bị lừa đảo. Sức khỏe đáng ngại. Người sinh tháng 3, 9 kiện cáo, mổ xẻ, hao tán. Ngược lại sinh giờ Tý, Ngọ hoạnh phát tài danh.

2.3. Đại hạn tới cung Dậu, hoặc nam mạng tiểu hạn năm Hợi, nữ mạng tiểu hạn năm Sửu đều qua cung Dậu. Cung Dậu thuộc kim, bổn mạng cũng thuộc kim, có sự tương hợp. Tiếc rằng cung Dậu ngộ Đào, Hỉ, gặp Triệt, mọi sự bế tắc, phải cẩn thận, duyên tình, gia đạo có những điều làm buồn phiền. Người sinh tháng 1, 7 hoặc giờ Dần, Tuất kiện cáo khó tránh. Gia đạo bất toàn, duyên tình tan vỡ.

2.4. Đại hạn tới cung Hợi thuộc thủy. Bổn mạng thuộc kim sinh ra cung nhập hạn, việc làm, tranh thương tốt đẹp. Nội cung có Hao-tinh, nhưng đã có Tuần ngăn cản, không đáng lo ngại. Thời gian này bỏ vốn buôn bán thuận lợi. Nếu mua nhà thì tốt. Người sinh tháng 3, 9 kiện cáo, mổ xẻ đến sạt nghiệp. Ngược lại sinh giờ Tý, Ngọ, hoạnh phát tài danh.

2.5. Đại hạn tới cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, nam nữ tiểu hạn năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu cũng qua những cung trên. Bổn mệnh thuộc kim, cung nhập hạn thuộc thổ. Thổ sinh kim: Thời gian thuận lợi, làm việc được quí nhân giúp đỡ, mọi quyết định hanh thông. Nhất là hạn qua cung Thìn ngộ Long-trì, hạn qua cung Sửu, Mùi ngộ Khôi, Việt, những người làm chính-trị, quân-sự, chắc chắn thành công. Trừ trường hợp sinh giờ Dần, Tuất, hoặc Thân, Thìn ngộ Kiếp, Không tai vạ không nhỏ. Đại hạn tới cung Thìn, Tuất, mà sinh tháng 2, 8 càng đáng lo ngại vì đau đớn xác thịt hay hình sự. Đại hạn tới cung Sửu, Mùi mà sinh tháng 5, 11 bệnh tật, kiện tụng.

2.6. Đại hạn qua cung Tý, Ngọ, Dần, Thân, tiểu hạn năm Tý, Ngọ Dần, Thân phải rất cẩn thận:

- Nếu đại tiểu hạn qua một trong các cung trên, mà bản cung không ngộ Hình, Kị, Kiếp, Không, chỉ gặp khó khăn mà thôi. Nếu hạn qua cung Tý, Ngọ, sinh tháng 4, 10. Hoặc hạn qua cung Tý, sinh giờ Sửu, Hợi. Hạn qua cung Ngọ sinh giờ Tỵ, Mùi tai vạ thực không nhỏ. Hạn qua cung Dần, Thân, sinh tháng 6, 12 không đáng lo. Nhưng hạn qua cung Dần, Thân sinh giờ Mão, Dậu, tai vạ trùng điệp. Nhẹ thì đau yếu.

- Nếu đại hạn qua các cung trên, tiểu hạn cũng qua các cung trên, tai vạ không nhỏ. Ít ra là gia đình ly tán, kiện cáo, mất nghiệp.

- Nếu đại hạn qua một trong các cung trên. Tiểu hạn cũng qua một trong các cung trên, thêm vào các sao Kiếp, Không, Hình, Kị thì tai vạ càng nặng thêm lên.

- Nếu đại, tiểu hạn ở Tý, Ngọ hoặc Dần, Thân tương xung, đại bất hạnh. Nếu thêm sát tinh thì phải hiểu là chết.

Tuy nhiên đại hạn qua cung Dần. Hoặc tiểu hạn nam năm Thìn, nữ năm Thân ngộ Lộc-tồn, Thiên-mã làm ăn tương đối thịnh vượng, giải được tai ách. Thường thì mua nhà, mua xe. Nhưng hay bị đau yếu do ngộ Tang-môn.

3. Trên đây là đại cương về vận hạn Giáp Tý. Chúng tôi chỉ đưa ra những nét đại cương, để cho các vị nghiên cứu Tử-vi lấy đó làm mô-thức hầu giải đoán vận hạn. Chứ đừng coi những điều ghi trên là tuyệt đối.

XI. Kết Luận

1. Giáp Tý là tuổi dễ thành danh trên đường danh vọng so với 4 tuổi Tý khác. Họ có tính linh-mẫn, hiểu được những biến chuyển xẩy ra xung quanh, lại có khả năng quyết đoán sáng suốt và điều khiển được tình thế.

2. Về duyên tình, họ không thiết tha với gia đình, thích chạy theo công danh. Có nhiều vị hoàng-đế sáng nghiệp tuổi Giáp Tý. Cũng có nhiều minh-quân, bạo chúa tuổi này.

4. Khi họ đi vào đại-vận xấu, thường vì quá tự đắc mà sụp đổ.

No comments:

Post a Comment